Đã xuất hiện những điểm đáng chú ý trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc kể từ khi xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính 2007-2008. Nhiều người đã nhận thấy sự chuyển đổi mang tính quyết đoán và chủ nghĩa dân tộc của Trung Quốc, được thể hiện rõ nhất trong ngoại giao toàn cầu cấp cao nhằm thúc đẩy chương trình nghị sự và các tranh chấp trên biển với các quốc gia láng giềng để bảo vệ lợi ích “cốt lõi” của mình. Nhưng vẫn rất khó để có thể khái quát đặc trưng của thay đổi này. Ngay cả cái mác “quyết đoán”, một thuật ngữ không mấy đáng chú ý trong quan hệ quốc tế, vẫn còn gây tranh cãi. Phổ biến hơn là chủ nghĩa bi quan khi đề cập đến Trung Quốc và Đông Á, như nhà chiến lược Robert Kaplan đã nói, “Bản đồ khu vực Thái Bình Dương thế kỷ 21, với những tàu chiến, giống như bản đồ châu Âu thời xung đột trong những thế kỷ trước”. Liệu đây có phải là dấu hiệu cho thấy sự bắt đầu thay đổi hoàn toàn chiến lược hợp tác, điềm tĩnh trước kia? Những sự kiện diễn ra gần đây có ý nghĩa thế nào với mối quan hệ Mỹ-Trung, trật tự Đông Á, và sự lãnh đạo toàn cầu?
Câu chuyện về sự trỗi dậy của Trung Quốc rất dài, để lại hậu quả và mang tính toàn cầu. Những tranh chấp trên biển ở Đông Á, dù quan trọng, cũng khó có thể làm toát lên toàn bộ câu chuyện về quĩ đạo quốc tế của Trung Quốc. Dù mập mờ và gây tranh cãi, nhưng trong hầu hết thời gian thời hậu Chiến tranh Lạnh, quan điểm về “trách nhiệm quốc tế” giúp Trung Quốc có định hướng cho những chuyển đổi trong nước và quốc tế. Là một ý tưởng, nó hàm chứa những áp dụng tốt nhất cũng như các qui chuẩn và thể chế quốc tế giúp định hướng và truyền cảm hứng cho các nhà cải cách Trung Quốc. Ý tưởng về việc trở thành một “cường quốc trách nhiệm” đã kiềm chế chủ nghĩa dân tộc và những toan tính mang tính thực dụng, góp phần vào sự trỗi dậy thành công của Trung Quốc. Cũng quan trọng không kém, liên kết một quốc gia XHCN đổi mới vào cộng đồng quốc tế đã làm xuất hiện thuật ngữ can dự của phương Tây với Trung Quốc.
Nhưng trong khoảng một thập niên trở lại đây, Trung Quốc đã từ bỏ hình ảnh đó. Việc bỏ đi hình ảnh một “cường quốc trách nhiệm” cho thấy bước đột phá ấn tượng từ quan niệm “đổi mới và mở cửa” cũng như “trỗi dậy hòa bình” trước đây của Đặng Tiểu Bình. Ở trong nước, bước ngoặt mới kích động cuộc tìm kiếm một mô hình chính trị mang đặc sắc Trung Quốc để chối bỏ mô hình dân chủ kiểu phương Tây. Được tiếp sức bởi những mối quan ngại an ninh truyền thống, chẳng hạn như những tranh chấp chủ quyền trên biển, và những vấn đề phi truyền thống đang nổi lên, bao gồm an ninh điều khiển học, mối lo ngại ngày một tăng và tâm lý bất an đã len lỏi vào quan hệ giữa Trung Quốc với Mỹ, Nhật Bản và Đông Nam Á.
Không có bản sắc riêng kết nối Trung Quốc với thế giới và một điểm tựa cho sự can dự của phương Tây, Trung Quốc hậu trách nhiệm đã trở nên mang tính xét lại nhiều hơn. Nhưng Trung Quốc không theo chủ nghĩa cô lập; trên thực tế, như lời của cựu chủ tịch Hội Nghiên cứu quốc tế, Etel Solingen, “các nhà lãnh đạo biết tiếp thu của Trung Quốc đã gắn sự tồn tại chính trị của họ với nền kinh tế chính trị toàn cầu”. Tuy nhiên, toàn cầu hóa kinh tế của Trung Quốc cũng có thể làm giảm sự chú ý của chúng ta đối với trọng tâm của thách thức xét lại của cường quốc đang trỗi dậy này. Thiếu tâm lý về trách nhiệm chia sẻ với các cường quốc khác trong hệ thống quốc tế, những nghi ngờ đã làm gia tăng cạnh tranh – ngay cả trong các lĩnh vực nơi logic cạnh tranh tưởng chừng như là đòn bẩy cho đối tác giữa Trung Quốc và Mỹ. Và trường hợp này đã xuất hiện thách thức: nếu can dự vào hệ thống toàn cầu nhưng không phải như một “cường quốc có trách nhiệm”, thì ở những lĩnh vực nào Trung Quốc sẽ tìm cách để tái can dự với cộng đồng quốc tế và tái phân bổ sức mạnh và quyền lực toàn cầu?
Sự trỗi dậy của “cường quốc trách nhiệm”
Ý tưởng về “cường quốc trách nhiệm” bắt đầu xuất hiện trong suy nghĩ của người Trung Quốc từ giữa thập niên 1990 và các học giả Trung Quốc có vẻ như đã nhất trí rằng nó trở thành bản sắc dân tộc riêng của Trung Quốc từ năm 1997. Dù sự ra đời của nó có một ngày cụ thể, nhưng không nhà lãnh đạo nào được cho là đã khởi xướng khái niệm đó. Giang Trạch Dân, là nhà lãnh đạo tại thời điểm đó, có thể được coi là căn nguyên tự nhiên cho khái niệm đó, nhưng không phải ông. Khi xem xét lại toàn bộ những tài liệu ngoại giao dưới thời Giang, được xuất bản năm 2002, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc thời đó Tiềm Kỳ Tham đã nêu 12 “tư tưởng chiến lược và chính sách quốc tế có tầm nhìn xa” của ông Giang, nhưng không có khái niệm Trung Quốc là một “cường quốc trách nhiệm”.
Thay vì thế, khái niệm này có nguồn gốc bất thường hơn, theo đó nó nhiều khả năng bắt nguồn từ Mỹ, nhưng trước rất nhiều năm 2005, thời điểm có bài diễn thuyết nổi tiếng về “nước lớn trách nhiệm” của Phó Ngoại trưởng khi đó Robert Zoellick. Tổng thống Bill Clinton, có lẽ trong một cuộc gặp bên lề Hội nghị kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Liên Hợp Quốc (LHQ), năm 1995, đã tái khẳng định với Chủ tịch Giang Trạch Dân rằng Mỹ chào đón Trung Quốc vào nhóm các cường quốc. Nhưng những cường quốc đó cũng có những trách nhiệm lớn. Quan điểm của Mỹ, được các quan chức chính quyền tái khẳng định ở những nơi khác, cho thấy logic chính sách can dự của Nhà Trắng trong việc chuyển đổi Trung Quốc hậu Thiên An Môn thành một “cường quốc trách nhiệm”. Phản ứng lại với thông điệp tích cực từ Mỹ, truyền thông và bình luận chính thức của Trung Quốc đã công khai hưởng ứng quan điểm này. Dù những khái niệm khác cũng đã được các lãnh đạo Trung Quốc đưa ra, nhưng “cường quốc trách nhiệm” là kết quả của việc Trung Quốc “lấy ngôn từ của chính quyền Clinton”. Sự phổ biến khái niệm đó là rất kỳ lạ, đặc biệt trong bối cảnh mối quan hệ Trung-Mỹ.
Các học giả đã nhấn mạnh rằng những ý tưởng nhất định có ý nghĩa nhất định riêng vì chức năng của chúng như những “bản đồ đường bộ” giúp định hướng chính sách. Nhưng đôi khi sự mập mờ cũng lý giải cho tính hấp dẫn của ý tưởng. Trong trường hợp “cường quốc trách nhiệm”, ý nghĩa của nó chưa bao giờ chính thức được nêu ra. Các chính trị gia Mỹ chưa từng nói rõ ý nghĩa của những vấn đề cụ thể, mặc dù việc này không ngăn cản các học giả cố gắng làm rõ những điều kiện đối với chính sách Trung Quốc của Mỹ. Trên thực tế, yêu cầu đối với trách nhiệm của Trung Quốc cho thấy sự rút lui khỏi chính sách liên kết trước đó của Tổng thống Clinton, vốn xác định những nhượng bộ cụ thể của Trung Quốc để đổi lấy quy chế tối huệ quốc. Bên cạnh những nghiên cứu làm rõ Trung Quốc phải làm những gì, Mỹ chưa bao giờ chỉ ra cụ thể những bổn phận mà nước này mong muốn Trung Quốc thực thi.
Dù có sự mơ hồ, nhưng kỳ vọng ở cả trong nước và quốc tế về sự tự thay đổi chính sách đối ngoại của Trung Quốc theo các chuẩn mực quốc tế là rõ ràng. Chẳng hạn, những đổi mới thể chế trong nước là một đòi hỏi cho việc trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Quốc tế (WTO).
Các nhà lãnh đạo đổi mới do Thủ tướng Chu Dung Cơ đứng đầu đã phải tái cơ cấu các tập đoàn do nhà nước Trung Quốc quản lý, điều chỉnh nhiều chức năng của nhà nước, và khung pháp lý trong nước để phù hợp với thể chế thương mại quốc tế và cạnh tranh trong thị trường toàn cầu. Cải thiện hình ảnh của Trung Quốc như một thành viên đáng tin cậy ở châu Á và như một công dân quốc tế là điều không thể khác nếu Trung Quốc muốn tránh sự nghi ngờ và quan ngại từ các nước khác. Để tạo dựng hình ảnh hòa bình và mang tính xây dựng, như giáo sư Johnston thuộc đại học Havard nói, Trung Quốc cần thể hiện sự chú trọng tới vị thế quốc tế của mình và hành xử theo các chuẩn mực. Vì thế, bản sắc cường quốc lớn có trách nhiệm có nội dung đa phương và nguyên trạng đối với Trung Quốc. Trên thực tế, biểu hiện rõ ràng nhất là ở quan điểm của Trung Quốc đối với chủ nghĩa đa phương – sự thay đổi từ chống sang ủng hộ chủ nghĩa đa phương vào cuối thập niên 1990 là một trong không nhiều những thay đổi mạnh mẽ trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc hiện nay.
Cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997-1998 ở châu Á đã trở thành một sự kiện để bàn luận. Nó giúp các nhà lãnh đạo Trung Quốc hiểu trách nhiệm có ý nghĩa thế nào xét trên khía cạnh kỳ vọng và lợi ích. Giữa biến động mạnh mẽ của các đồng tiền ở Đông Á, điều Bắc Kinh nên làm là không phá giá đồng Nhân dân tệ (RMB), ngay cả khi điều đó đồng nghĩa với việc đi ngược lại lợi ích tức thời của Trung Quốc trong việc duy trì cạnh tranh trong lĩnh vực xuất khẩu. Trung Quốc đã hành động đúng như vậy – không phá giá đồng Nhân dân tệ - vì thế đã giúp ổn định kinh tế khu vực. Hơn nữa, một điều nằm ngoài dự đoán, Trung Quốc đề xuất chia sẻ việc hỗ trợ tài chính cùng nỗ lực giải cứu quốc tế cho các quốc gia láng giềng đang phải vật lộn với khó khăn. Do cuộc khủng hoảng đã gây lo ngại cho các nền kinh tế láng giềng, ý tưởng về trách nhiệm trở nên thực tế và thích hợp với Trung Quốc hơn là những mối quan tâm toàn cầu ở những nơi xa xôi. Thực tế là những hành động của Trung Quốc đã góp phần hỗ trợ các nước láng giềng đang gặp khó khăn và cũng quốc tế hóa “trách nhiệm” theo lời kêu gọi của Mỹ. Trong trường hợp này, trách nhiệm đã phục vụ cho lợi ích của Trung Quốc, được quốc tế ca ngợi và giúp gia tăng ảnh hưởng của Bắc Kinh đối với khu vực. Kết quả là, ý tưởng đó đã mở ra một loạt khái niệm và hành động mới, phản ánh không chỉ một tinh thần đa phương tươi mới mà còn một thế giới quan mới giúp củng cố việc toàn cầu hóa của Trung Quốc.
Như vậy, người Trung Quốc không chỉ thụ động chấp nhận một vai trò do các cường quốc phương Tây sắp đặt. Thay vì thế, Trung Quốc đảm đương vai trò “cường quốc trách nhiệm” như lời kêu gọi hành động với tư cách một thành viên tích cực trong các vấn đề quốc tế, khác với hình ảnh tự phác họa từ lâu như một nạn nhân của các nước lớn. Ý tưởng cũng gợi ý rằng những mối đe dọa đối với Trung Quốc đã vượt qua khuôn khổ dân tộc-quốc gia, và các biện pháp đối phó cũng vậy. Việc này đã làm nhạt phai quan niệm truyền thống về chủ quyền cứng của Trung Quốc. Phản ánh việc ý tưởng này đã thâm nhập mạnh mẽ vào cách nhìn nhận thế giới của Trung Quốc, học giả tự do Wang Yizhou đã công khai nói rằng lợi ích quốc gia của Trung Quốc nên bao gồm sự lưu tâm tới trách nhiệm quốc tế, bên cạnh những đổi mới nhằm tăng cường nội lực và bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ.
Giữa những năm 1990, Trung Quốc chính thức coi mình là một “cường quốc trách nhiệm” vì sức mạnh và áp lực của Mỹ. Khi châu Âu, Nhật Bản và các nước còn lại ở châu Á ngay lập tức hưởng ứng lời kêu gọi về chính sách can dự của Mỹ với Trung Quốc, nó đã giúp chuyển đổi hiệu quả mục tiêu của Mỹ hướng tới một yêu cầu quốc tế tập thể. Cuộc khủng hoảng tài chính ở châu Á và những yêu cầu để Trung Quốc trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Quốc tế (WTO), điều mà nước này đạt được vào năm 2001, đã giúp giới lãnh đạo Trung Quốc hiểu rằng vận mệnh trong nước của Trung Quốc gắn chặt với thế giới.
Nghịch lý ở chỗ, việc Trung Quốc tự nhận là một “cường quốc trách nhiệm” vừa rõ ràng vừa mập mờ. Bắc Kinh ý thức được sự cần thiết phải có những thay đổi nhằm xóa bỏ hình ảnh quốc tế xấu xí sau cuộc thảm sát đẫm máu ở Quảng trường Thiên An Môn năm 1989, và những đổi mới phù hợp với kỳ vọng quốc tế khi có cơ hội tốt nhất để làm việc đó. Trong nước, những người như Thủ tướng Chu Dung Cơ hối thúc kế hoạch để Trung Quốc trở thành thành viên WTO nhằm thúc đẩy việc tái cơ cấu nền kinh tế và đổi mới về mặt thể chế. Nhưng biệt danh “trách nhiệm” cũng khiến giới lãnh đạo Trung Quốc có quá nhiều cách để diễn dịch khái niệm này cho phù hợp với chương trình nghị sự của mình, vì thế nó mập mờ.
Trong hành xử với thế giới bên ngoài, các nhà lãnh đạo Trung Quốc tách “trách nhiệm” khỏi vấn đề chính trị trong nước. Hành động như một “cường quốc trách nhiệm” khiến quốc tế không thể can thiệp vào vấn đề nhân quyền của Trung Quốc, và cũng giúp lãnh đạo nước này quyết đoán, không khoan nhượng với biểu hiện nhỏ nhất nào của một cuộc cách mạng màu trong nước. Nó không gây rủi ro cho tính pháp lý của nhà nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thay vào đó, trách nhiệm quốc tế mở ra cơ hội cho họ thỏa hiệp với phương Tây về những khác biệt chính trị, những khác biệt mà trước đó là nguyên nhân chính dẫn tới sự đối đầu chiến lược giữa các cường quốc. Xét trên khía cạnh sự kiềm chế và thích nghi của Trung Quốc với cộng đồng quốc tế, những nhân tố này đã trở thành tín hiệu về sự đáng tin cậy và một bệ phóng mới cho sự “trỗi dậy hòa bình” của Trung Quốc.
Nhìn chung, trong giai đoạn đầu từ khoảng năm 1989-1998, khía niệm về lợi ích quốc gia của Trung Quốc mở và đủ thoáng để kết hợp hài hòa với “trách nhiệm quốc tế” như là một bản sắc mới của Trung Quốc. Trách nhiệm tạo điều kiện cho Trung Quốc cải thiện địa vị của mình. Nó phù hợp với chương trình nghị sự của giới lãnh đạo có tư tưởng cải cách và toàn cầu hóa kinh tế. Cố gắng để trở thành một “cường quốc trách nhiệm” giúp Trung Quốc hội nhập sâu hơn vào toàn cầu hóa, giảm mối lo sợ về sức mạnh Trung Quốc, và thúc đẩy việc tham gia tích cực trong trật tự thế giới hiện nay như là mục tiêu chủ đạo trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc. “Trách nhiệm quốc tế” có thể khởi đầu là một sản phẩm nhập ngoại. Nhưng ý nghĩa của từ “trách nhiệm” chưa bao giờ được các cường quốc khai sinh ra nó và Trung Quốc định nghĩa rõ ràng.
Như Yongjin Zhang và Greg Austin đề cập, “Trách nhiệm của cường quốc cả về chính trị và đạo đức được xác định là mập mờ chứ không rõ ràng”. Thông qua sự nhạy bén chính trị và quốc tế hóa, các nhà lãnh đạo mang tư tưởng đổi mới của Trung Quốc đã có thể áp dụng ý tưởng “trách nhiệm quốc tế” để phục vụ cho nhu cầu của Trung Quốc và giúp định hướng sự mơ hồ và bất an mà họ phải đối mặt cả chính trị trong nước và quốc tế trong thời kỳ hỗn loạn này. Vì thế, nó trở thành việc tự xác định và một lựa chọn hơn là đầu hàng trước những yêu cầu của nước ngoài. Nhưng ở chừng mực nhất định, ý tưởng này đặt ưu tiên hàng đầu cho việc tuân thủ các chuẩn mực quốc tế, việc đi theo ý tưởng này được cho là thời khắc “tự do” nhất trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Các quan chức Trung Quốc dĩ nhiên cho rằng những thể chế và chuẩn mực quốc tế hiện có là một phần quan trọng trong khung tham khảo, nếu không nói là định hướng, cho cải cách trong nước và sự chuyển đổi của Trung Quốc. Các nhà lãnh đạo và giới phân tích Trung Quốc thường công khai tỏ ra khó chịu và chống lại những bất công trong thể chế quốc tế do phương Tây giữ vai trò chủ đạo.
Nhưng họ cũng tin rằng một “thế giới đa cực” có thể dần chuyển đổi khỏi trật tự hiện nay. Trong tương lai gần, ở thời khắc chuyển giao thế kỷ, là một công dân tốt hơn trong cộng đồng quốc tế sẽ tạo điều kiện cho việc thực thi các chính sách trong và ngoài nước.
Sự đi xuống của một “cường quốc trách nhiệm”
Cho tới khoảng năm 2005, “trách nhiệm quốc tế” phần nào được lĩnh hội khá hào hứng, nhưng sau đó, nó trở thành vấn đề trong bản sắc quốc tế của Trung Quốc. Sự thay đổi diễn ra cùng lúc với bài diễn văn nổi tiếng của Phó Ngoại trưởng Mỹ Robert Zoellick hồi tháng 9/2005 trong đó kêu gọi Trung Quốc trở thành một “nước có trách nhiệm”. Giữa những điều không chắc chắn trong chiến lược của chính quyền tổng thống George W. Bush đối với Trung Quốc và nỗi lo sợ bị kiềm chế, bài diễn văn của Zoellick – giống như câu nói của Clinton về “cường quốc trách nhiệm” – đã đưa ra một thông điệp cam kết. Nhưng có những mục tiêu khác biệt lớn trong chính sách thời Clinton và Bush. Được đưa ra sau tuyên bố chính thức của Trung Quốc về “sự trỗi dậy hòa bình”, bức thông điệp của Zoellick là một phản ứng có chủ đích sau các cuộc tiến công hôm 11/9 nhằm tạo ra một phương thức tương tác ổn định với Trung Quốc.
Yêu cầu về trách nhiệm của Trung Quốc sau vụ Thiên An Môn trong thời Clinton bắt nguồn từ những nhà lãnh đạo Trung Quốc mang tư tưởng đổi mới, sử dụng việc tăng cường đối ngoại cho những mục tiêu trong nước, một bên (trong khi vẫn chống lại sự can thiệp từ bên ngoài vào công việc nội bộ của mình), và bên kia là áp lực cải cách do Mỹ và các đồng minh tạo ra với Trung Quốc. Việc xác định trách nhiệm quốc tế vừa phục vụ cho những lợi ích trong nước của giới lãnh đạo Trung Quốc và hướng tới việc tự do hóa hoàn toàn trong chính trị Trung Quốc.
Tuy nhiên, một thập niên sau đó, sáng kiến của Mỹ nhằm khuyến khích trách nhiệm không còn chỉ với mình Trung Quốc và những nhà cải cách của nước này. Với Mỹ, việc đưa Trung Quốc vào danh sách các nước đóng vai trò “nước lớn trách nhiệm” chủ yếu là vì sự tương tác chiến lược thời kỳ hậu 11/9 nhằm chống lại những thách thức an ninh chung toàn cầu. Trên thực tế, các nhà phân tích Trung Quốc coi bài diễn văn của Zoellick là dấu hiệu cho thấy việc Mỹ bỏ kiềm chế là để tranh thủ những đóng góp của Trung Quốc nhằm quản lý một thế giới ngày càng phụ thuộc lẫn nhau hơn. Quan trọng hơn, như học giả nổi tiếng ở Thượng Hải Shen Dingli đã đề cập, việc này đánh dấu sự thừa nhận chính thức đầu tiên của Mỹ rằng “Trung Quốc có lợi ích và đặc quyền để chia sẻ và có thể phát huy những lợi ích của mình thông qua việc đảm đương nhiều trách nhiệm hơn”. Nhưng cũng theo cách hiểu này, các nhà phân tích Trung Quốc phàn nàn rằng gánh nặng đóng góp quốc tế vẫn chỉ đặt lên vai mình Trung Quốc. Về phần mình, Mỹ không chịu trách nhiệm và cũng không nhân nhượng đúng mức những lợi ích chia sẻ và sự thừa nhận vị thế.
Thuật ngữ “nước lớn trách nhiệm” xuất hiện trong lúc có những sự kiện quan trọng làm thay đổi hệ thống quốc tế. Chiến tranh Irắc bắt đầu làm suy giảm sức mạnh và hình ảnh nước Mỹ. Trong khi đó, Trung Quốc và những nền kinh tế đang nổi lên khác tiếp tục tăng trưởng mạnh và bắt đầu đảm trách ngày càng nhiều trọng trách hơn trong các vấn đề toàn cầu, năm 2001 được coi là một dấu mốc quan trọng khi Trung Quốc trở thành một trong số các cường quốc mới nổi của khối BRIC. Những thuận lợi trong phát triển kinh tế đã giúp giới lãnh đạo Trung Quốc tự tin với con đường kinh tế chính trị trong nước của mình. Thể chế bị chỉ trích hậu sự kiện Thiên An Môn đã bắt đầu nhận được sự ngưỡng mộ quốc tế từ phương Tây, như thể hiện trong sự trỗi dậy của “Sự thỏa hiệp Bắc Kinh” hay ý tưởng rằng một hệ thống chính trị độc quyền với một nền kinh tế thị trường có vẻ phù hợp hơn là các nền dân chủ trong khía cạnh ra quyết định nhanh chóng vốn là đòi hỏi của hệ thống kinh tế liên kết, toàn cầu hóa trong kỷ nguyên thông tin. Cuộc đàm phán 6 bên, mà Bắc Kinh bắt đầu chủ trì năm 2003, đã tạo uy tín lớn cho Trung Quốc, nhưng cũng bắt đầu cho thấy những hạn chế trong trách nhiệm của quốc gia này – Trung Quốc đã đưa những giá trị tối cao đối với Bắc Triều Tiên như là vùng đệm chiến lược và chính trị, và chỉ sẵn sàng có những tiến bộ khi thuyết phục được Bắc Triều Tiên thay đổi.
Kết quả là, đã có nhiều hơn những nghi ngờ và diễu cợt đối với phản ứng của Trung Quốc khi phương Tây kêu gọi đóng góp quốc tế lớn hơn vào những vấn đề như vậy và một số vấn đề khác như biến đổi khí hậu. Vì thế, cảm nhận về trách nhiệm quốc tế của Trung Quốc đã lùi lại phía sau tác động toàn cầu của họ. Dù Trung Quốc nhanh chóng nổi lên như là quốc gia thải ra nhiều khí thải gây hiệu ứng nhà kính nhất, nhưng họ lại từ chối vai trò lãnh đạo ứng phó với biến đổi khí hậu vì cho rằng nếu làm như thế sẽ đồng nghĩa với việc thỏa hiệp về chủ quyền và tăng trưởng của mình trong khi các hãng công nghiệp gây ô nhiễm của các nền kinh tế phương Tây lại không phải chịu trách nhiệm gì. Trung Quốc quay sang chỉ trích, đặt câu hỏi liệu các quốc gia phương Tây có thực sự có lương tâm khi đưa ra lời khuyên cho các quốc gia khác hay liệu một số chính sách của Mỹ và các nước đồng minh có phù hợp khi được đưa lên đầu danh sách giải quyết các vấn đề như mất cân bằng kinh tế toàn cầu, can thiệp về nhân quyền và phổ biến vũ khí.
“Trung Quốc có trách nhiệm” đã tạo ra một hình ảnh đẹp giúp chống lại nỗi lo sợ về sự trỗi dậy của Trung Quốc, nhưng giờ đây một số nhà bình luận Trung Quốc coi đó là sự tiếp tục của một “Trung Quốc sụp đổ” và “Học thuyết mối đe dọa của Trung Quốc” vốn được coi là cách để coi nhẹ và hạ thấp Trung Quốc. Nỗi lo ngại là ở chỗ do cái mác “trách nhiệm” trong việc chấp nhận rủi ro trong điều hành tỷ giá đồng Nhân dân tệ và thậm chí còn lớn hơn trong việc gây sự mất cân bằng kinh tế toàn cầu, điều mà một số người tin là bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng tài chính và nền kinh tế ốm yếu của Mỹ. Nỗi lo sợ của Trung Quốc không hoàn toàn không có cơ sở, vì việc định giá thấp đồng “tiền dễ dàng” từ thặng dư thương mại lớn của Trung Quốc đã bị cho là một nguyên nhân dẫn tới khủng hoảng. Trong hoàn cảnh này, các nhà bình luận thuộc chính giới Trung Quốc tỏ ra nghi ngờ bất kỳ nỗ lực nào của phương Tây nhằm “bẫy” khiến Trung Quốc bị quá tải với những trách nhiệm quốc tế không công bằng. Các bài viết của Trung Quốc cho thấy sự hài lòng vì ánh hào quang mới phản ánh những thành tựu, nhưng ngược lại với nguồn chính thống – các nhà phân tích Trung Quốc luôn khẳng định vị thế “quốc gia đang phát triển”, điều mà về mặt định nghĩa đã khiến Trung Quốc không phù hợp để giải quyết quá nhiều vấn đề bên ngoài biên giới quốc gia.
Các quan chức Trung Quốc cũng bắt đầu thay đổi và điều chỉnh những mục tiêu quốc gia với tên gọi trách nhiệm toàn cầu. Chẳng hạn trong lĩnh vực kinh tế và tài chính, họ bảo vệ việc áp dụng chủ nghĩa trọng thương mới khi nói rằng Trung Quốc không chỉ quan tâm tới những lợi ích của mình, mà rằng sự tăng trưởng ổn định trong nước chính là một đóng góp cho thế giới. Trong lĩnh vực quân sự, các quan chức và học giả Trung Quốc cho rằng năng lực phòng thủ đang tăng nhanh của mình là cần thiết để chống lại cướp biển và những mối đe dọa khác ở những vùng biển xa, cũng như đóng góp cho các hoạt động gìn giữ hòa bình của LHQ.
Cuối cùng, giai đoạn này cũng đánh dấu một bất đồng công khai và quyết liệt giữa một bên là Trung Quốc với bên kia là Mỹ cùng phương Tây đối với định nghĩa về “trách nhiệm”. Như nhà phân tích Yuan Peng của Trung Quốc đã nói ‘về phần mình, Trung Quốc không hiểu khái niệm trách nhiệm quốc tế như những kỳ vọng của Mỹ’. Ông cùng rất nhiều cộng sự của mình đã đặt câu hỏi về tính công bằng và pháp lý của những đòi hỏi quốc tế. Trung Quốc cũng đối đầu với phương Tây, cho rằng chính phương Tây đã gây nên những thất bại quốc tế. Chẳng hạn, các nhà bình luận Trung Quốc chỉ trích sự điều hành tài chính sai lầm của Mỹ chính là nguyên nhân dẫn tới cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Họ ca tụng những gì Trung Quốc đã làm trong việc hỗ trợ các quốc gia đang phát triển, trong khi chỉ trích các quốc gia phương Tây vì không thực hiện nghĩa vụ của mình nhằm đạt được những Mục tiêu Thiên niên kỷ của LHQ.
Trong cuộc khủng hoảng ở Liby và “Mùa xuân Arập” năm 2011, các nhà bình luận Trung Quốc đã chỉ trích mạnh mẽ sự can thiệp quân sự của NATO. Bên cạnh lập luận phổ biến rằng sự can thiệp đó là hành động vi phạm chủ quyền, giờ đây một số người còn tiến công vào sự can thiệp nhân đạo của phương Tây vì sử dụng danh nghĩa “trách nhiệm quốc tế” trong việc thực thi lệnh trừng phạt của LHQ để áp đặt quan điểm của họ với các quốc gia khác. Trung Quốc chống lại mạnh mẽ tiêu chí nhân quyền có tên gọi Trách nhiệm bảo vệ (R2P) sau khi bắt đầu nổ ra cuộc khủng hoảng Xyria năm 2011, như một đồng minh với Nga để ngăn chặn bất kỳ nghị quyết nào của LHQ nhằm trừng phạt những cuộc đàn áp của chính quyền Xyria đối với người dân nước này. Trong mọi tình huống, Trung Quốc bỏ qua sự can thiệp đó, vì làm như vậy, theo một học giả ở Thượng Hải, có thể làm tổn hại tới những lợi ích của Trung Quốc và đi ngược lại “vị thế chỉ đạo về đạo đức của Trung Quốc trong cộng đồng quốc tế”.
Trong khoảng một thập niên trở lại đây, chúng ta đã chứng kiến sự suy giảm của bản sắc Trung Quốc như một cường quốc trách nhiệm. Điều một thời được coi là thuốc giải cho hình ảnh tiêu cực của Trung Quốc giờ đây bị nghi ngờ như hiện thân mới nhất của một nỗ lực xấu nhằm hãm hại Trung Quốc. Trung Quốc giờ đây không mấy sẵn sàng tuân thủ, mà tỏ ra sẵn sàng yêu cầu các quốc gia khác hơn. Chính phủ Trung Quốc nhìn thấy những cơ hội lớn hơn để thay đổi cách thức thể hiện trong công tác đối ngoại thời hậu Chiến tranh Lạnh của mình. Chống phương Tây hóa trong hành trình tìm kiếm chính trị mang bản sắc Trung Quốc cũng được đẩy mạnh trong nước, thúc đẩy hơn nữa cải cách trong nước và năng động hơn trong vị thế quốc tế. Trung Quốc sử dụng những “lợi ích cốt lõi” của đất nước như là cách để chống lại lời kêu gọi của Mỹ về trách nhiệm quốc tế. Nhưng những ngày chú trọng tới trách nhiệm trong lợi ích quốc gia đã không còn.
Trong khi chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa dân tộc là những động lực chủ đạo cho chính sách đối ngoại của Trung Quốc thời Chiến tranh Lạnh, thì cùng với đó là nhận thức rộng rãi về sự thích ứng quốc tế nhằm đạt được nguyện vọng của quốc gia này. Nhưng trong khoảng 01 thập niên vừa qua, Trung Quốc đã cho thấy sự suy giảm tự kiềm chế và tự do hóa trong khi theo đuổi lợi ích quốc gia. Giờ đây, giới phân tích và các quan chức Trung Quốc không thừa nhận những khiếm khuyết mà thường tuyên bố vị thế tối cao trong vai trò như là một cường quốc trách nhiệm của Trung Quốc. Họ nỗ lực thể hiện những tiêu chuẩn kép trong thực thi của phương Tây. Nếu trong quá khứ, trách nhiệm quốc tế giúp thúc đẩy vươn lên thành cường quốc của Trung Quốc, thì giờ đây nó đã trở thành một mặt trận trung tâm trong cuộc chiến của Trung Quốc nhằm giành được sức mạnh, quyền lực và sự thể hiện trong chính trị toàn cầu.
Trung Quốc như một cường quốc hậu trách nhiệm
Ngoại giao Trung Quốc gần đây đã cho chúng ta thấy hình ảnh đang nổi lên của chủ nghĩa xét lại Trung Quốc. Ở trong nước, giới chính trị Trung Quốc đã quay lưng lại với những giá trị dân chủ đa đảng kiểu phương Tây. Đảng Cộng sản Trung Quốc thậm chí còn cứng rắn hơn trước đây khi không khoan nhượng với bất kỳ sự chống đối có tổ chức nào, và càng không với một đảng phái chính trị thách thức quyền lãnh đạo của họ. Thay vào đó, Trung Quốc ngày nay được mô tả như một cường quốc hậu trách nhiệm. Kể từ khi lên nắm quyền lãnh đạo Trung Quốc năm 2012, Chủ tịch Tập Cận Bình đã vạch ra một tiến trình ngoại giao mới nhằm xa rời đường hướng ủng hộ giữ nguyên hiện trạng trước đây. Chiến lược mới đặt ưu tiên hàng đầu cho những lợi ích và lợi ích ràng buộc. Đây là chiến lược mang tính toàn cầu nhưng chú trọng hơn ở châu Á và một vị thế địa chính trị năng động hơn. Dù Trung Quốc đã chiếm vị trí trung tâm trong chính trị thế giới, nhưng quốc gia này lại tỏ ra không mấy nhiệt huyết trong việc lãnh đạo toàn cầu. Trong kỷ nguyên hậu trách nhiệm, Mỹ đã chống lại cường quốc đang trỗi dậy Trung Quốc bằng một loạt hoạt động răn đe quân sự, liên minh an ninh và chuyển đổi chiến lược sang châu Á. Hoặc do sự thờ ơ, chỉ mong muốn vươn lên tự do, hoặc nhằm chống lại chiến lược xoay trục của Mỹ, ngoại giao Trung Quốc đã cho thấy sự giảm nhiệt huyết trong hợp tác đối phó với những vấn đề xuyên quốc gia như vấn đề nhân đạo, an ninh điều khiển học và phổ biến vũ khí.
Có ít hơn rất nhiều môi trường cho hai cường quốc này nghĩ về sự hợp tác trong các vấn đề nêu trên. Tại một cuộc trả lời phỏng vấn báo chí hồi tháng 8/2014, trong lúc tức tối, Tổng thống Mỹ Obama đã gọi Trung Quốc là một “kẻ vươn lên tự do” hoàn toàn; tất nhiên Bắc Kinh phản đối chỉ trích đó. Nhưng giới lãnh đạo Trung Quốc cũng phản đối sự bất công trong trật tự thế giới hiện nay và hoặc công khai, hoặc ngấm ngầm yêu cầu cải cách thể chế này. Họ có xu hướng coi trách nhiệm quốc tế như trách nhiệm thực sự của Mỹ và thường kêu gọi đóng góp lớn hơn từ Nhà Trắng.
Với thất bại của ý tưởng “cường quốc trách nhiệm”, Trung Quốc đã viện đến việc cân nhắc những lợi ích quốc gia và cường quốc, cố thúc đẩy toàn cầu hóa về kinh tế nhằm định hình lại môi trường quốc tế, thay vì cách đi lòng vòng khác. Trong ngoại giao mới, những lợi ích vừa được coi là mục tiêu vừa được coi là công cụ. Mục tiêu liên quan tới những lợi ích cốt lõi của Trung Quốc, còn công cụ là việc Trung Quốc sử dụng lợi ích ràng buộc để xây dựng thương hiệu của mình trong cộng đồng an ninh. Tìm cách tạo dựng thế chủ động trong ngoại giao, Trung Quốc đã đề cập tới “những lợi ích quốc gia cốt lõi”. Những lợi ích này bao gồm an ninh của đất nước, sự toàn vẹn lãnh thổ và thể chế chính trị quốc gia và tăng trưởng kinh tế ổn định. Việc chú trọng tới an ninh thể chế cho thấy quyết tâm của giới lãnh đạo Trung Quốc nhằm triển khai chính trị trong nước theo cách riêng của họ với rất ít sự can thiệp của phương Tây. Trên mặt trận kinh tế, chính phủ Trung Quốc đã tự cho mình vai trò điều phối giai đoạn chuyển đổi trong một nền kinh tế toàn cầu bất ổn. Dù những thay đổi về kinh tế và chính trị là hậu quả, họ tập trung vào hoặc chính trị trong nước hoặc thị trường. Những lợi ích cốt lõi bao gồm những tranh chấp lãnh thổ là thứ gây quan ngại nhất. Nhìn chung, mọi người hiểu rằng giới lãnh đạo Trung Quốc coi Đài Loan và Tây Tạng là những lợi ích hiện hữu, nhưng còn những tranh chấp lãnh thổ khác thì sao? Tháng 3/2010, các quan chức chính phủ Trung Quốc được cho là đã nói với những người đồng cấp Mỹ trong một cuộc gặp kín rằng giờ đây họ coi Biển Đông là lợi ích cốt lõi của Trung Quốc. Mặc dù các quan chức Trung Quốc không sử dụng chính xác từng từ, nhưng ngữ điệu và hành động sau đó của họ cho thấy sự quyết đoán lớn và cấp thiết hơn trước đây trong việc áp đặt những tuyên bố chủ quyền của mình lên những vùng biển tranh chấp trên Biển Hoa Đông và Biển Đông.
Dù lợi ích của Trung Quốc là mục tiêu của họ, nhưng chúng cũng là công cụ để xoay chuyển môi trường quốc tế của Trung Quốc. Zheng Bijian, kiến trúc sư của chiến lược “trỗi dậy hòa bình”, lần đầu tiên giới thiệu khái niệm “cộng đồng lợi ích” vào năm 2004. Khái niệm này nhằm thúc đẩy việc tiếp cận những lợi ích kinh tế của Trung Quốc nhằm khai thác các nhóm quốc gia ủng hộ Trung Quốc. Kể từ đó, Trung Quốc đã nỗ lực hơn trong việc liên kết sự toàn cầu hóa về kinh tế của mình với các mục tiêu chiến lược. Theo cách này, sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế có mối liên hệ với địa chính trị. Dưới thời Tập Cận Bình, Trung Quốc đã tiến xa hơn. Quốc gia này hướng tới xây dựng nhiều “cộng đồng chung vận mệnh”, được xây dựng nhằm liên kết những lợi ích vào động lực hướng tới các cộng đồng an ninh và chính trị. Tận dụng tăng trưởng kinh tế không ngừng của mình, Trung Quốc tìm cách tạo ra các vùng những quốc gia thân thiện, chịu ơn Trung Quốc vì những giúp đỡ về kinh tế.
Dù ngoại giao mới của Trung Quốc mang định hướng toàn cầu, nó cũng bao gồm sự quay trở lại mang tính quyết định ở châu Á. Mong muốn hơn về những lợi ích toàn cầu thay cho chủ nghĩa xét lại toàn cầu, có lẽ là sáng kiến thể chế quốc tế đáng chú ý duy nhất mà Trung Quốc triển khai (cùng với Ấn Độ, Nga, và Nam Phi) là việc xây dựng Ngân hàng Phát triển BRICS với số vốn ban đầu 100 tỷ USD vào tháng 7/2014. Nhưng chính Chương trình Con đường Tơ lụa, liên quan tới các quốc gia Trung, Nam và Đông Nam Á mới là biểu hiện rõ nét về những tham vọng ngoại giao hiện nay của Trung Quốc. Tháng 10/2013, Chủ tịch Tập Cận Bình và Thủ tướng Lý Khắc Cường đã chủ tọa hội nghị liên ngày đầu tiên và duy nhất về ngoại giao khu vực của Trung Quốc với sự tham dự của toàn bộ các Ủy viên thường trực Bộ Chính trị. Cũng trong khoảng thời gian này, dưới sự lãnh đạo mới của Tập-Lý, Trung Quốc đã triển khai chiến lược “Con đường Tơ lụa”, bao gồm việc xây dựng một “vành đai kinh tế Con đường Tơ lụa” Á-Âu về hướng tây và một “Con đường Tơ lụa trên Biển” sang các nước Nam và Đông Nam Á. Được viết trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3, Trung ương ĐCS Trung Quốc khóa 18, chiến lược Con đường Tơ lụa dựa trên các mạng mở Á-Âu và biển châu Á kết nối với nhau thông qua các dự án cơ sở hạ tầng và giao thông do Trung Quốc bỏ tiền xây dựng, cũng như qua quan hệ thương mại và tài chính.
Chiến lược này là kết quả tự nhiên của những nỗ lực của chính quyền trung ương nhằm phát triển các khu vực phía tây Trung Quốc, trong khi mở ra những động lực và mục tiêu mới cho quan hệ giữa Trung Quốc với các quốc gia Đông Nam Á. Năm 2014, Trung Quốc đã đi tiên phong trong việc tạo dựng Ngân hàng Phát triển Cơ sở hạ tầng châu Á có trụ sở tại Bắc Kinh, bắt đầu với 21 quốc gia thành viên và nguồn vốn 50 tỷ đôla Mỹ. Chương trình này đã có sự phát triển đáng kể khi Trung Quốc tiết lộ một khoản vốn riêng rẽ cho Con đường Tơ lụa trị giá 40 tỷ đôla Mỹ hồi tháng 11/2014 trong hội nghị thường niên APEC. Những sáng kiến này rất khó để cho là một dạng của chủ nghĩa xét lại vốn đã dẫn tới cuộc chiến bá quyền trong quá khứ. Nhưng chúng giúp tăng ảnh hưởng của Trung Quốc và gây áp lực lên các thể chế hiện có như Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng Phát triển châu Á.
Chương trình Con đường Tơ lụa được phác họa nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế khu vực với mục tiêu chiến lược lớn hơn. Được đẩy mạnh cùng với các khái niệm chính sách như “an ninh châu Á” và “giấc mộng châu Á-TBD” mà ông Tập đã giải trình tại Hội nghị APEC 2014 ở Bắc Kinh, khái niệm này đề cập tới sự thịnh vượng kinh tế và mối quan hệ khăng khít hơn ở châu Á. Rõ ràng là Con đường Tơ lụa phản ánh tham vọng của Trung Quốc nhằm tạo dựng một trật tự châu Á với Trung Quốc là trung tâm.
Trung Quốc như một cường quốc hậu trách nhiệm cũng đã thể hiện một vị thế địa chính trị mạnh mẽ hơn, xa rời cách tiếp cận mờ nhạt trước đó để trở thành một thế lực mạnh mẽ và quyết đoán hơn ở Đông Á. Như hai nhà phân tích Michael Swaine và Ashley Tellis đã lập luận, với hầu hết thời gian hậu Chiến tranh Lạnh, Trung Quốc là một “khách mua hàng” chứ không hoàn toàn là một “nhà sản xuất” của an ninh quốc gia, phác thảo một chiến lược trong đó chấn an các quốc gia khác về ý định hòa bình chứ không phải đe dọa của mình nhằm khai thác các thế lực hòa bình và phát triển quốc tế phục vụ cho lợi ích của Trung Quốc. Tuy nhiên, với sức mạnh ngày một tăng của mình và chính sách xoay trục sang châu Á của Mỹ, chiến lược an ninh của Trung Quốc đã trở nên năng động hơn trong việc cố gắng định hình tình hình an ninh hiện nay ở châu Á. Đặc biệt, Trung Quốc đã tỏ ra hiếu chiến hơn trong đối phó với đối thủ khu vực của mình là Nhật Bản, và với các quốc gia có tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông như Việt Nam và Philippin.
Sự thay đổi cũng thúc đẩy việc hiện đại hóa quân đội Trung Quốc với trọng tâm là khả năng sẵn sàng chiến đấu trong các khu vực ngoại biên của Trung Quốc. Trong thời gian đầu của chính quyền Tập Cận Bình, Trung Quốc đã tuyên bố thiết lập Vùng nhận diện Phòng không (ADIZ) ở trên Biển Hoa Đông, tăng chi tiêu quân sự năm 2014 lên 12,2%, và thành lập Hội đồng An ninh Quốc gia do đích thân ông Tập làm chủ tịch. Rõ ràng là Tập Cận Bình đã tỏ ra sẵn sàng sử dụng sức mạnh cưỡng ép, quân sự và kinh tế trong ngoại giao khu vực hơn những người tiền nhiệm của ông là Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào. Trước kia, Trung Quốc cố gắng tránh các cuộc khủng hoảng kéo dài vì lo sợ có sự can thiệp của nước ngoài, nhưng giờ đây, Bắc Kinh đã tỏ ra quyết liệt hơn trong các tuyên bố chủ quyền và kiểm soát khủng hoảng.
Các nhà lãnh đạo và chiến lược gia Trung Quốc coi toàn bộ những rắc rối chính sách ngoại giao lớn của mình là do Mỹ gây ra. Vì thế, tranh chấp chủ quyền trên biển có tầm quan trọng chiến lược. Nó là động cơ cho việc hiện đại hóa quân đội. Về mặt ngoại giao, Trung Quốc áp dụng việc trừng phạt các quốc gia trong khu vực đứng về phía Mỹ trong khi hậu thuẫn các quốc gia thân thiện bằng những lợi ích kinh tế. Toàn cầu hóa về kinh tế giúp Trung Quốc có được nhiều công cụ quốc gia phi chính qui. Lợi thế của Trung Quốc trong xây dựng cơ sở hạ tầng, vốn, thương mại và thậm chí là nhu cầu năng lượng cho phép quốc gia này có lợi thế ràng buộc, thứ cũng có thể thúc đẩy những mục tiêu chiến lược của Bắc Kinh. Việc chuyển đổi sang giai đoạn hậu trách nhiệm của Trung Quốc đã gây bất ổn trong quan hệ với Mỹ, không tạo dựng được trật tự Đông Á, và làm xấu hơn thể chế toàn cầu. vị thế quân sự và những tranh chấp lãnh thổ của Trung Quốc cũng làm gia tăng nỗi ám ảnh về chiến tranh liên quan tới việc chuyển giao quyền lực trong lịch sử. Nhưng chủ nghĩa xét lại hiện nay của Trung Quốc cũng cho thấy sự khác biệt đáng kể với những bất đồng đã đẩy các cường quốc trong quá khứ tới chiến tranh. Cuối cùng, Trung Quốc vẫn là một cường quốc toàn cầu hóa. Những nỗ lực của Bắc Kinh nhằm một lần nữa tạo ra cộng đồng “lợi ích” và “bản sắc” thông qua các dự án Con đường Tơ lụa đòi hỏi phải tiếp tục bám lấy, chứ không phải xa rời thị trường quốc tế. Theo cách này, Trung Quốc và thế giới thực sự là một “cộng đồng chung vận mệnh”.
Cuộc khủng hoảng trong chính trị cường quyền
Tranh cãi về trách nhiệm cho thấy thế giới đã thay đổi thế nào từ thập niên 1990 và mức độ bất đồng ngày một tăng của Trung Quốc với trật tự thế giới hiện nay. Những rắc rối của Trung Quốc với vấn đề “trách nhiệm” cho thấy triệu chứng khủng hoảng trong mối quan hệ cường quốc và lãnh đạo thế giới nói chung. Một thế giới với ý thức trách nhiệm yếu là một thế giới với áp lực không nhiều đối với việc tuân thủ của các cường quốc đang nổi lên, và quyền lãnh đạo giảm sút đối với các nước đã là cường quốc. Với việc không một quốc gia nào sẵn sàng thừa nhận bất kỳ một cơ sở về chính trị và đạo đức nào, việc đổ lỗi cho nhau chỉ làm suy yếu các thể chế quyền lực toàn cầu. Cuối cùng, trách nhiệm là về “các luật chơi” nơi các quốc gia chú ý đến việc tự kiềm chế, những bổn phận chung, quản lý sự phụ thuộc lẫn nhau và góp phần vào những điều tốt đẹp chung cho toàn cầu. Nó là liều thuốc giải cho cách nhìn thiển cận, tư lợi và chính trị cường quyền không giảm. Không có nó, nỗi lo ngại và sự không chắc chắn hiện hữu. Hành vi của các cường quốc có nguy cơ dẫn tới việc không thể chịu đựng thêm như điều mà Arnold Wolfers gọi là “triết lý về sự cần thiết”, điều “có xu hướng dẫn tới từ chức, vô trách nhiệm hoặc thậm chí là vinh quang của sự phi luân”. Trên thực tế, trong vòng vài năm trở lại đây, trong khi những tuyên bố chủ quyền và sự hiếu chiến của Trung Quốc gia tăng, Bắc Kinh lại đổ lỗi cho Mỹ và chính sách xoay trục của Mỹ là nhân tố gây bất ổn khu vực. Dù việc mở rộng ảnh hưởng kinh tế của Trung Quốc ở châu Âu, Á và xa hơn có thể thúc đẩy kinh tế toàn cầu và sự phát triển kinh tế ở các quốc gia nghèo hơn, mà không gây tâm lý trách nhiệm quốc tế chia sẻ, nhưng nó có nguy cơ trở thành mối đe dọa hơn là một cú hích cho trật tự toàn cầu. Tương tự như vậy, các vấn đề trong những trường mới, như an ninh điều khiển học và quản lý không gian vũ trụ, có thể trở thành một chiến trường mới cho các đối thủ cường quốc. Tình hình thay đổi đã cản trở sự trỗi dậy hòa bình của Trung Quốc, mối quan hệ ổn định Trung-Mỹ, trật tự khu vực ở Đông Á và sự lãnh đạo toàn cầu.
Với việc mất đi trách nhiệm, mối quan hệ Mỹ-Trung đã mất đường hướng. Kết quả là, thay vì thúc đẩy mối quan hệ hướng tới một “mô hình quan hệ nước lớn kiểu mới” như ông Tập Cân Bình đề xuất, nhiều khi mối quan hệ song phương này bị lái theo logic về sự cần thiết mà Wolfers đã cảnh báo. Trung Quốc và Mỹ cần điều chỉnh khung trách nhiệm chia sẻ. Điều đó có thể đòi hỏi mỗi quốc gia phải đương đầu với khủng hoảng sâu hơn về các qui tắc và quyền hạn-chứ không chỉ đơn giản là sự chuyển đổi quyền lực trong chính trị thế giới-và đưa ra những điều khoản mới cho mối quan hệ cường quốc.
Trung Quốc có thể nói không với lời kêu gọi trở thành một “cường quốc trách nhiệm” của phương Tây, nhưng quốc gia này đã ít nhiều thực thi một số trách nhiệm quốc tế nhất định thông qua LHQ. Ngược lại với giai đoạn tuân thủ trước kia, hiện nay, Trung Quốc không chấp nhận thêm những thua thiệt và khăng khăng theo đuổi những tiêu chuẩn của mình về cách hành xử phù hợp và giới hạn đạo đức. Tuy nhiên, cùng với việc Trung Quốc nỗ lực thể hiện ra bên ngoài, các nhà lãnh đạo nước này phải nhận ra rằng giải pháp cho cuộc khủng hoảng trách nhiệm toàn cầu không chỉ đơn thuần là việc áp đặt những lợi ích của mình và điều mình muốn với phần còn lại của thế giới. Sau thất bại của Hội nghị Copenhagen về biến đổi khí hậu năm 2009, Mỹ và Trung Quốc cuối cùng đã đi đến thỏa hiệp về các chương trình song song nhằm cắt giảm khí thải các-bon tại Hội nghị APEC Bắc Kinh, tháng 11/2014. Đây là dấu hiệu cho thấy hai quốc gia này có thể được thuyết phục để trở thành đối tác khi những lợi ích của họ gắn liền với việc cùng lãnh đạo như vậy. Cuối cùng, Trung Quốc vừa là một cường quốc hậu trách nhiệm và một cường quốc toàn cầu hóa. Vì thế, câu hỏi là: Làm thể nào để Trung Quốc có thể tham gia vào một trục lãnh đạo thế giới với nhiệt huyết mới về trách nhiệm quốc tế? Câu trả lời có thể sẽ quyết định liệu Trung Quốc có trở thành một “cường quốc mới” trong thế kỷ 21, phù hợp với một “mô hình quan hệ nước lớn kiểu mới” với Mỹ hay không./.
- Tác giả: Yong Deng
- Nguồn: T/c “The Wasinhton Quarterly”, số Đông 2015
- Người dịch: Nguyễn Hồng Cường